Đối với Đảng,
từng tổ chức cơ sở Đảng cho đến toàn Đảng, đó là chủ thể tổ chứcgắn liền với hoạt động giữa muôn vàn mối quan hệ trong đời
sống xã hội, trước hết là trong đời sống chính trị của Đảng thì như Bác Hồ nói, gương mẫu là cách lãnh đạo tốt nhất, được lòng dân nhất.
Đảng là đạo đức, là văn minh nên Đảng phải tiêu biểu cho sự gương mẫu, từ gương
mẫu của đảng viên đến gương mẫu của toàn Đảng. Như vậy, gương mẫu mang sức mạnh
của đạo đức, có nền tảng vững chắc từ đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư.
Trong sự gương
mẫu của toàn Đảng, gương mẫu của từng cá nhân các nhà lãnh đạo cấp cao có vai
trò, tác dụng đặc biệt to lớn, bởi nó tạo dựng niềm tin, quy tụ sự
đoàn kết, thống nhất, thúc đẩy mọi người hướng thiện và tự hoàn thiện mìnhtheo
gương sáng mẫu mực của các nhà lãnh đạo mà toàn Đảng, toàn dân đặt vào họ niềm
tin tưởng và hy vọng.
Gương mẫu là sức
mạnh đạo đức để tạo ra uy tín và ảnh hưởng. Đó là đảm bảo đạo đức của quyền lực
và quyền uy. Nhờ có đạo đức mà quyền lực không bị lợi dụng, lạm dụng vào những
mục đích bất minh, bất chính do chủ nghĩa cá nhân vụ lợi, vị kỷ, tham vọng và
dục vọng vây bủa như một lẽ thường tình ở đời. Giữ trọn vẹn đạo đức trong sáng,
công tâm, liêm khiết, chính trực thì việc thực thi quyền lực sẽ tránh được khuyết
điểm, sai lầm, sẽ không rơi vào tha hóa, thậm chí tội lỗi.
Người cầm quyền có đạo đức và thực sự là tấm gương đạo đức thì quyền uy hay uy quyền của họ trở
nên chính đáng, đích thực, có tác dụng tích cực vì nó công tâm, trong sáng, có
sức thuyết phục và cảm hóa lòng người. Họ biểu hiện ra trong nhìn nhận, đánh
giá của mọi người là người có tấm lòng nhân hậu, khoan dung, nhân ái, vị tha,
được kính trọng, nể phục. Trong đời sống hằng ngày, con người sống và hành động
có đạo đức được gọi là người tử tế, lương thiện, chính tâm. Nhà lãnh đạo, trong
chức trách, bổn phận của con người chính trị, mà nhân
cách của họ phải ở tầm văn hóa chính trị, càng phải nổi bật, tiêu
biểu cho đạo đức, phẩm giá tử tế, lương thiện và chính tâm đó.
Không phải ngẫu
nhiên mà Hồ Chí Minh nêu lên một triết lý, “chính trị cốt ở đoàn kết và thanh khiết, thanh khiết từ việc nhỏ đến
việc lớn”. Đạo đức là giá trị cốt lõi của văn hóa, nên trong nhân cách làm người và ở đời, Người luôn nhấn mạnh, đức là gốc,
tài là quan trọng, có đức phải có tài, có tài phải có đức và đức luôn là gốc.
Người nêu rõ 4
chuẩn mực đạo đức cần, kiệm, liêm, chính với yêu cầu rất cao: Phải đủ cả 4 đức
mới là người hoàn toàn, thiếu một đức thì không thành
người(tác giả nhấn mạnh). Người lãnh đạo càng không thể
thiếu, không thể yếu một đức nào. Lẽ dĩ nhiên, Đảng cũng như con
người, không phải thần thánh gì, ở đời “nhân vô thập toàn”, cho nên để xứng
đáng với dân, để được dân tin cậy và noi theo, đã làm lãnh đạo thì phải gương mẫu, phải rèn luyện
suốt đời, nêu gương tự soi, tự răn và tự sửa một cách thật thà (chữ
dùng của Hồ Chí Minh) những gì mà bản thân mình còn khiếm khuyết để tự hoàn
thiện. Thật thà thì chính tâm và có dũng khí, có nghị lực vượt lên chính mình.
Trong cuộc đời, tự vượt lên chính mình là khó khăn, nhọc nhằn nhất. Chiến thắng
chính bản thân mình, vượt qua tính tham, lòng tham, thói kiêu căng tự mãn, hám
danh lợi chức quyền, thích tâng bốc ngợi ca, thậm chí “tự đánh bóng cá nhân”,
“tự quảng cáo cho mình”-những biểu hiện trong muôn vàn biểu hiện của chủ nghĩa
cá nhân… xưa nay, vẫn đòi hỏi con người phải có động cơ, mục đích sống cao
thượng, nghị lực bền bỉ và bản lĩnh vững vàng. Người lãnh đạo mang danh hiệu
cộng sản thời đại Hồ Chí Minh càng phải như vậy.
Bác Hồ đúc kết thành những phương châm cho chúng ta tu dưỡng, thực hành. Đó là
“dĩ công vi thượng”, “quang minh chính đại”, “phụng công thủ pháp”, “tinh thành
đoàn kết”, “nghiêm với mình, rộng lòng khoan thứ với người”…
Trước khi viết
“Sửa đổi lối làm việc”, với bút danh “Tân Sinh”, vào tháng 3-1947, Người đã
viết tác phẩm quan trọng “Đời sống mới”. Người nói với chúng ta về cách ứng xử, hàm súc, cô đọng, sâu sắc như kinh Phật
răn dạy người đời từ bỏ tham-sân-si vậy.
Người viết rằng,
“mình hơn người thì chớ kiêu căng, người hơn mình chớ có nịnh hót, thấy của
người chớ có tham lam, đối của mình chớ có bủn xỉn”(1). Đó là tự ứng xử theo
khuôn mẫu đạo đức.
Có những lời dạy
của Người mà càng suy ngẫm ta càng thấy sâu sắc. Người nói, ai có đạo đức thì
dễ tiếp thu chân lý hơn. Vậy là, đạo đức như bệ đỡ cho con người nhận thức được
sáng suốt và hành động được đúng đắn hơn. Ghi vào sổ vàng Trường Đảng cao cấp
Nguyễn Ái Quốc cách đây đã gần 70 năm, Người viết, học để làm việc, học để làm
cách mạng, làm cán bộ và để làm người. Học để phụng sự Tổ quốc, phục vụ giai
cấp, Tổ quốc, dân tộc, nhân dân và nhân loại. Muốn đạt mục đích đó, trước hết, phải cần, kiệm, liêm, chính.
Người còn chỉ
dẫn, cái gì tốt, cái gì có lợi cho dân, cái đó là chân lý. Phục vụ nhân dân là phục tùng chân lý cao
nhất. Suốt đời làm đầy tớ trung thành, làm công bộc tận tụy của dân-đó là lựa
chọn một lẽ sống cao thượng nhất.
Người đòi hỏi
chúng ta suốt đời phải gần dân, học dân, hỏi dân để hiểu dân, tin dân, trọng
dân, để thương dân và vì dân.
Trong 6 điều dạy
cán bộ, chiến sĩ công an, để xứng đáng là “công an nhân dân, vì nước quên thân
vì dân phục vụ”, Người đặc biệt nhấn mạnh “đối với nhân dân phải kính trọng, lễ
phép”(2).
Rõ ràng, đạo đức
cách mạng làm cho đảng cách mạng, người cách mạng đủ sức vượt qua chủ nghĩa cá
nhân để trở nên đảng cách mạng chân chính, người cách mạng chân chính, được dân
tin, dân phục, dân yêu.
Khi viết “Sửa
đổi lối làm việc” vào năm 1947, với bút danh X.Y.Z, Người nêu lên 12 điều xây
dựng Đảng cách mạng chân chính, trong đó nổi bật ở điều đầu tiên,
nói về bản chất Đảng và động cơ vào Đảng của mỗi người. Đảng là một tổ chức
cách mạng, phấn đấu hy sinh vì lợi quyền của giai cấp, phục vụ Tổ quốc, dân
tộc, nhân dân và nhân loại. Đảng không phải là tổ chức để
làm quan phát tài. Người nhấn mạnh, phải dựa vào dân mà xây dựng Đảng, căn cứ vào ý kiến,
thái độ của dân mà kiểm tra xem đường lối, chính sách của Đảng đúng hay sai.
Đảng dựa vào dân để chấn chỉnh tổ chức bộ máy, nhất là dựa vào dân để giáo dục,
rèn luyện cán bộ, đảng viên. Cả mười hai điều ấy chỉ vẻn vẹn có 456 từ mà toát
lên một hệ thống quan điểm, phương thức, phương pháp lãnh đạo của một Đảng cầm
quyền. Có thể xem đây là chủ thuyết xây dựng Đảng Cộng
sản cầm quyền với
cống hiến nổi bật của Hồ Chí Minh về lý luận Đảng cầm quyền(3). Đó là một cống
hiến vô giá của Người vào kho tàng kinh điển Mác-Lênin trên tư cách nhà tư
tưởng mác xít sáng tạo và mang tinh thần cách tân, đổi mới.
Theo Hồ Chí
Minh, Đảng lãnh đạo, cầm quyền vì dân, Nhà nước do Đảng lãnh đạo phải thực sự
là Nhà nước dân chủ-pháp quyền của dân, do dân và vì dân, làm chức năng quản lý
để nhân dân làm chủ.
Theo đúng tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, Đảng lãnh đạo sao chođúng quy luật, thuận lòng dân
và hợp thời đại, từ cách mạng giải phóng dân tộc đến cách mạng xã
hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đảng lãnh đạo bằng trí tuệ khoa
học, bằng đạo đức, bằng văn hóa, lãnh đạo một cách dân chủ, tựu trung lại, đó
là lãnh đạo bằng sự gương mẫu mà
Người nhận xét rằng, đó là cách lãnh đạo tốt nhất, hợp lòng dân, được lòng dân
nhất. Bởi dân hiểu về Đảng, đặt trọn niềm tin vào Đảng từ những cảm nhận trực
tiếp hằng ngày của họ về thái độ, hành vi, hoạt động, lời nói-việc làm của đảng
viên, nhất là đảng viên lãnh đạo. Không
phải cứ viết lên trán hai chữ cộng sản, tự xưng là cộng sản mà dân tin đâu. Dân
chỉ tin và theo Đảng từ sự gương mẫu, trách nhiệm, tận tụy phấn đấu hy sinh của
các đảng viên, nhất là đảng viên lãnh đạo.
Bởi đề cao lãnh
đạo bằng gương mẫu nên Người công phu giáo dục rèn luyện đảng viên từ lý luận
đến thực hành, nâng cao trình độ, có tầm nhìn xa trông rộng, lại có bản lĩnh
dám hy sinh và dám chịu trách nhiệm, sáng tạo và đổi mới, chăm lo “giữ gìn sự
đoàn kết, thống nhất trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt
mình”(Di chúc). Ra
sức trau dồi đạo đức cách mạng, thực hành dân chủ, “thật thà nhúng tay vào
việc” khi làm dân vận, hết lòng tin vào vai trò, sức mạnh của dân và cũng hết
lòng thương yêu cán bộ, chiến sĩ, đồng chí, đồng bào. Nghiêm khắc với mọi
khuyết điểm sai lầm, nêu cao tự phê bình và phê bình, có tình đồng chí thương
yêu lẫn nhau. Còn có ai mẫu mực, nhất quán giữa nói và làm như Hồ Chí Minh. Còn
có ai tiên phong gương mẫu, phấn đấu hy sinh như Hồ Chí Minh, trên cương vị Chủ
tịch Đảng, Chủ tịch nước. Ở đỉnh cao quyền lực mà Người không bao giờ có biểu
hiện của chủ nghĩa lãnh tụ, chủ nghĩa quyền uy. Người cầm quyền mà lại không ra
lệnh nhưng quyền uy của Người là tuyệt đối. Người là linh hồn đại đoàn kết dân
tộc, linh hồn của trí tuệ, đạo đức trong Đảng trong dân. Vậy nên, quyền lực,
quyền uy không phải là ở chỗ ra lệnh mà từ sức thuyết phục của trí tuệ, sức cảm
hóa của đạo đức, sức lan tỏa của sự nêu gương, nói ít làm nhiều, chủ yếu là
hành động, đã nói thì phải làm, nhiều khi tự việc làm toát lên
tư tưởng. “Triết học vô ngôn”, “thông điệp không lời” của Hồ Chí Minh là phong cách đặc sắc
của Người, là hiện tượng độc đáo của văn hóa Hồ Chí Minh.
Một tấm gương
sống còn có giá trị hơn 100 bài diễn văn tuyên truyền nên Người là hiện thân
của hành động nêu gương. Có biết bao chuyện kể về Người, cảm động, sống động và
trở thành huyền thoại.
- Người nêu gương tự học suốt đời, tích lũy một khối
lượng to lớn tri thức, kinh nghiệm, vốn sống để tự mình nâng cao hiểu biết,
không để lạc hậu so với đà biến chuyển mau lẹ của thực tiễn, nắm lấy chân giá
trị của chủ nghĩa, học thuyết Mác-Lênin ở tinh thần và phương pháp của nó, để
độc lập suy nghĩ, để hành động sáng tạo đầy bản lĩnh trước những thử thách bước
ngoặt. Các nhà lãnh đạo, các thế hệ học trò của Người cần học Người từ phẩm
chất trí tuệ đó.
- Người nêu gương thực hành, tự mình làm trước để cổ vũ, khích lệ,
thúc đẩy mọi người làm theo. Đọc Tuyên ngôn độc lập,
tuyên ngôn dựng nước Việt Nam mới, khai sinh chế độ cộng hòa dân chủ, ngày
2-9-1945, thì ngay sau đó, ngày 3-9-1945 Người chủ trì phiên họp đầu tiên của
chính phủ lâm thời. Đó là phiên họp lịch sử, độc nhất vô nhị trong lịch sử nền hành pháp nước ta.
Người đề nghị các vị bộ trưởng trong chính phủ do Người đứng đầu hãy cùng nhau
nhịn ăn, cứ 10 ngày nhịn một bữa, mỗi bữa một lon gạo, lấy gạo giúp dân nghèo
qua cơn đói khổ vàNgười xung phong làm trước tiên. Người còn nhắc, nếu
đến ngày quy định nhịn ăn mà Người có việc phải tiếp khách thì Người sẽ nhịn bù vào hôm sau. Có chính phủ nào trên
thế giới như vậy? Có Chủ tịch Chính phủ nào như Hồ Chí Minh? Thế giới ngưỡng mộ
kính trọng Người, nhân dân đã khóc trước tấm lòng từ bi hỷ xả, vô ngã vị tha
của Người là vì vậy.
- Người cũng nêu gương về một đời gắn bó với dân. Đến
với dân, nghe dân, làm mọi việc vì dân đã trở thành lẽ tự nhiên, như nhiên
trong phẩm cách của Người. Chỉ trong 10 năm cuối đời, dù tuổi cao sức yếu,
Người vẫn có 700 lần đến với dân, ở cơ sở, nhất là với bà con nông dân ở
nông thôn. Trước khi mất, Người vẫn có thư cho bà con quê nhà, căn
dặn lãnh đạo tỉnh, huyện, xã không được để dân đói, không
được để các cháu bỏ học và nhất là không để xảy ra mất đoàn kết từ cơ quan lãnh
đạo của tỉnh ủy đến các chi bộ ở thôn làng. Cũng ba tháng trước khi
mất, ngày 1-6-1969, Người có thư cho thầy và trò Trường Tiểu học Vĩnh Niệm, Hải
Phòng, căn dặn phải ra sức thi đua dạy tốt, học tốt, xây dựng nước nhà.
- Người là một mẫu mực của lòng bao dung, nhân ái, trọng dụng nhân
tài, hiền tài. Dùng người tài đức, không phân biệt đảng viên hay
người ngoài Đảng. Lấy việc dân, việc nước làm trọng, nhờ dân giúp chính phủ tìm
kiếm nhân tài ra giúp nước. Dân chủ và nhân văn biết bao. Người cũng nêu cao
tinh thần trọng dân, trọng pháp,
ngay sau lễ độc lập đã có thư gửi toàn thể quốc dân đồng bào thông báolịch tiếp dân.
Người muốn được nghe thật nhiều những điều dân nguyện. Người lại có thư gửi
toàn thể quốc dân đồng bào thông báo, để tỏ lòng biết ơn các liệt sĩ đã hy sinh
vì Tổ quốc, Người sẽ nhận tất cả các con
liệt sĩ là con mình. Người không chỉ nói mà làm ngay, làm suốt đời,
chí tình chí nghĩa, gửi toàn bộ lương của Chủ tịch nước sang cho Bộ trưởng Bộ
Lao động, Cứu tế xã hội, bác sĩ Vũ Đình Tụng, để góp một phần quà cho các cháu.
Giữa ngày Toàn
quốc kháng chiến bùng nổ, Người đau đớn được tin con trai của bác sĩ Vũ Đình
Tụng đã bỏ mình vì Tổ quốc. Người viết thư chia buồn, lời lẽ cảm động tự đáy
lòng: “Ngài biết rằng, tôi không có vợ, có con, không có gia đình riêng. Nhưng
cả dân tộc Việt Nam
là gia đình lớn của tôi. Nam
nữ thanh niên nước ta là con cháu của tôi vậy. Ngài mất đi người con cũng như
tôi đứt từng khúc ruột. Mong ngài nén đau thương để tiếp tục làm tròn nhiệm vụ
cao cả của Chính phủ và cũng để cho linh hồn cháu được thanh thản dưới suối
vàng”.
… Cho đến cuối
đời, “một đời thanh bạch chẳng vàng son”, giữa bộn bề công việc muôn vàn khó
khăn, thử thách, vượt lên đau đớn của bệnh tật và nỗi cô đơn, Người dành tất cả
muôn vàn tình thương yêu cho mọi người, căn dặn Đảng và Chính phủ những việc
lớn, nhỏ cần làm, cần lo liệu, trù tính cho tương lai, dặn cả những điều mà
Người gọi là việc riêng, “chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình lãng phí thì giờ
tiền bạc của nhân dân”…
Hồ Chí Minh-đó
là tên gọi của Người từ khi Người viết “Lịch sử nước ta” giữa núi rừng Pác Bó
đầu nguồn, năm 1942 cho đến khi Người viết Di chúc. Đó là biểu tượng cao quý
của đức hy sinh và lòng dũng cảm, của trí tuệ, đạo đức, tình thương kết tinh
trong tiếng gọi tên Người-Hồ Chí Minh, mà vị Đại sư Ônishi, trụ trì “Thanh Thủy
tự”, một ngôi chùa nổi tiếng ở cố đô Nhật Bản khi nghe tin Người mất, đã nhòa
lệ khóc thương, viết bài “Điếu thi” để tỏ lòng tôn kính Người. Vị Đại sư đó kể
cho ta nghe, nếu phiên âm theo tiếng Nhật, thì Hồ Chí Minh là “BỒ
TÁT-TRI-DÂN”(4).
Còn với Đảng và
dân ta, Người sống mãi với non sông, đất nước, với dân tộc, với Đảng, với nhân
dân trong tiếng gọi trìu mến “BÁC HỒ”. Các nhà lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà
nước đang nỗ lực đi đầu, tiên phong gương mẫu học tập và làm theo Bác để thúc
đẩy toàn Đảng, toàn dân noi theo gương sáng ấy.
(còn nữa)